LINH ĐẠO TRUYỀN GIÁO

Thứ bảy - 19/07/2025 01:43

                       LINH ĐẠO TRUYỀN GIÁO

 +   DẪN NHẬP –
      Ý NGHĨA  CỦA TỪ NGỮ
       
       1.   LINH ĐẠO
          * Linh: thiêng liêng   -    
        * Đạo: hướng dẫn, (* Đạo:  đường).
       + Linh đạo là sự hướng dẫn về mặt thiêng liêng, đưa con người đến sự thánh thiện, đến với Thiên Chúa, qua Đức Kitô, dưới sự soi sáng của Chúa Thánh Thần.
         Ngày nay, thuật ngữ linh đạo được sử dụng theo nghĩa rộng hơn và được hiểu như một kinh nghiệm về Thiên Chúa và sự dấn thân trong thế giới. Bởi đó, thần học tu đức đã nói đến linh đạo Ba Ngôi, linh đạo giáo dân, linh đạo giáo lý viên, linh đạo môi sinh... "Các linh đạo này, tuy rất đa dạng, đều tỏa chiếu ánh sáng tinh tuyền và duy nhất của Chúa Thánh Thần". [1] / [2]
    
      2.   TRUYỀN GIÁO
      * Truyền: đem của người này mà trao cho người khác.
      * Giáo    : đạo.
      + Truyền Giáo: phổ biến đạo.
      + Truyền Giáo có gốc tiếng La tinh là missio - nghĩa là sai đi.
      - Theo nghĩa rộng: Truyền Giáo là sứ mệnh cơ bản của Giáo Hội, tức là loan báo Phúc Âm cho tất cả mọi dân tộc, theo mệnh Chúa Kitô. [3] Như vậy, truyền giáo là giới thiệu niềm tin, tình yêu và niềm hy vọng của Giáo Hội vào Thiên Chúa Ba Ngôi: Đấng tạo dựng, yêu thương và cứu độ muôn người. [4] Mục đích tối hậu của truyền giáo là làm cho loài người được tham dự, hiệp  thông trong tình yêu giữa  Ba Ngôi Thiên Chúa, làm cho Phúc Âm của Chúa Giêsu Kitô thấm nhập mọi chiều kích cuộc sống. [5]
- Theo nghĩa hẹp: Truyền Giáo chỉ công việc truyền bá đức tin Kitô Giáo và việc thành lập các giáo đoàn mới nơi các dân tộc hay nhóm người chưa tin vào Chúa Kitô, làm cho Phúc Âm thấm nhập vào trong nền văn hóa các dân tộc. [6]
   * Mọi kitô hữu đều có bổn phận truyền giáo. [7] Tuy nhiên, một số người có ơn gọi đặc biệt và được Giáo Hội sai đi loan báo Phúc Âm cho các dân tộc chưa nhận biết Chúa Kitô.  [8]
    + Linh Đạo Truyền Giáo
      Linh Đạo Truyền Giáo là những đường lối thiêng liêng, những phương thức đặc thù của ơn gọi tông đồ nhằm hướng dẫn vị tông đồ đạt tới sự thánh thiện để thực hiện sứ mệnh truyền giáo nhờ  tác động của Thần Khí.
   * Sau đây, xin giới thiệu những yếu tố căn bản, những  phẩm tính đặc trưng chính yếu trong linh đạo truyền       giáo.
          
     +  LINH ĐẠO TRUYỀN GIÁO

1.   Linh Đạo Truyền Giáo,
      Một Linh Đạo Thần Khí -
        Được Thần Khí linh hoạt
  
   Chúa Thánh Thần, Đấng chủ động trong sứ vụ truyền giáo; bởi đó, thừa sai phải là “người của Thần Khí.” Thừa sai là hợp tác viên của Thần Khí, để Thần Khí xức dầu và dẫn dắt như Ðức Giêsu. (x. Lc 4:18-19) Khi Ðức Kitô sai các tông đồ (các thừa sai) đi thì Ngài thổi hơi ban Thần Khí vào họ, (x. Ga 20:21-22) khiến họ là những thừa sai và Thần Khí trở thành như một để cùng chung sức làm chứng cho Ðức Kitô. (x. Ga 15:26-27; Cv 1:8) Do đó, thừa sai cần ý thức đặc biệt đến sự việc Thần Khí đang hiện diện nơi chính mình, đang hoạt động nơi mọi người, cũng như đang tác động trên văn hoá và lịch sử để hướng tất cả về với Ðức Kitô. Thừa sai là người mang Chúa Kitô (Christophore) và Thần Khí (Pneumatophore).
 
2.   Linh Đạo Truyền Giáo,
      Một  Linh Đạo "Quy Kitô" –
      Say mến Chúa Kitô và say mến con người
          
    Ðã là chứng nhân của Ðức Kitô, thừa sai phải sống linh đạo “quy Kitô,” lấy Ðức Kitô là trung tâm đời mình, sống kinh nghiệm về Ðức Kitô là Thầy, là Bạn đồng hành... “Có ở trong tình liên kết với Ðức Kitô thì mới hiểu và sống được sứ vụ truyền giáo”. [12] ... Sứ vụ truyền giáo rốt cuộc chỉ là nỗ lực “thông đạt cho người khác kinh nghiệm của mình về Ðức Kitô ”, [13] bởi đó, thiếu kinh nghiệm ấy, thì lời giảng của thừa sai chỉ là não bạt lèng xèng.
   Điểm đặc trưng của linh đạo Quy Kitô là lòng sùng kích đặc biệt đối với sự hiện diện của Ðức Giêsu trong bí tích Thánh Thể...và không thể quên được “thánh lễ là nguồn mạch và chóp đỉnh của toàn bộ đời sống Kitô giáo”; [14]  “nhờ Thánh Thể, Giáo Hội sống mạnh và tăng triển”. [15] Thừa tác viên của Nước Thiên Chúa phải nhớ cầm lòng rằng, đặc biệt, “Thánh Thể thông ban cùng nuôi dưỡng trong họ đức ái đối với Thiên Chúa cũng như đối với loài người, và đức ái chính là linh hồn của mọi hoạt động tông đồ”. [16] Nhiều khi, hoạt động truyền giáo duy nhất thừa sai có thể tiến hành là việc thờ phượng qua bí tích Thánh Thể, tột đỉnh chiêm nghiệm trong Kitô giáo.
   Truyền giáo vừa là một niềm say mê Đức Giêsu, vừa đồng thời là niềm say mê con người. Đứng trước Đức Giêsu chịu đóng đinh, chúng ta thấy được chiều sâu tình yêu của Ngài, tình yêu nâng chúng ta lên và kiện cường chúng ta, nhưng đồng thời, trừ khi chúng ta mù, chúng ta cũng bắt đầu nhận ra rằng cái nhìn cháy bỏng yêu thương của Đức Giêsu mở ra ôm ấp toàn thể dân của Ngài. Chúng ta một lần nữa nhận ra rằng Ngài muốn dùng chúng ta để đến gần với dân yêu dấu của Ngài hơn. Ngài chọn chúng ta từ giữa dân của Ngài và sai chúng ta đến với dân của Ngài; nếu không có ý thức thuộc về dân này, chúng ta không thể hiểu được căn tính thâm sâu của mình. [NVTM 268] Thừa sai phải là người say mến Chúa Giêsu và say mến con người.

3.  Linh Đạo Truyền Giáo,
     Một Linh Đạo Kinh Thánh -
     Sống và truyền thông Lời Chúa
  
   Linh đạo truyền giáo phải được nuôi dưỡng bằng của ăn Kinh Thánh, không chỉ vì Kinh Thánh nuôi dưỡng đức tin, mà cách riêng, vì thừa sai là “người của Lời”, là người báo tin, là người chuyên nghiệp rao giảng Lời Chúa. Tất nhiên Kinh Thánh phải là sách cẩm nang của thừa sai. Trong Kinh Thánh, thừa sai gặp được chính Lời mà mình có sứ mạng truyền đạt, mà mình là tiếng vọng. Lời ấy là ánh sáng soi đường đi, là bánh nuôi sống cho đời thiêng liêng, là suối dẫn nước đến cho tâm hồn khát uống, là nguồn ủi an mọi kẻ sầu khổ, v.v... Linh đạo Kinh Thánh dĩ nhiên là mang tính chất đại kết, vì giúp thừa sai công giáo biết dựa trên một căn bản chung mà gặp gỡ anh em Kitô giáo khác, cầu nguyện với họ, trao đổi với họ, cùng với họ làm chứng cho Lời Chúa v.v...

4.  Linh Đạo Truyền Giáo,
     Một  Linh Đạo Tự Hủy -
     Hủy mình ra không
   
   Linh đạo truyền giáo cho thấy rõ tính cách tự hủy (kenotic) nơi đời sống thiêng liêng của thừa sai. Tự hủy có nghĩa là phải đón nhận tình trạng cụ thể của cuộc sống với tất cả những giới hạn trong môi trường truyền giáo xa lạ, theo mẫu gương Ngôi Lời nhập thể. Như Ðức Kitô, môn đồ cũng phải “hoàn toàn trút bỏ thân phận mà mặc lấy thân tôi tớ”, (x. Pl 2, 6 tt) để trở nên giống “họ” như Ðức Kitô đã trở nên người phàm. Như Thầy mình, thừa sai “không đến để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ và hiến mạng sống làm giá cứu độ muôn người”, (Mt 20, 28) Ðức Giêsu và thánh Phaolô gọi “phương pháp” ấy là đường thập giá. Linh đạo của Phaolô nêu bật điểm này qua lời ngài viết cho giáo dân Galata: “Nhờ Chúa Giêsu Kitô bị đóng đinh, thế gian đã bị đóng đinh vào thập giá đối với tôi, và tôi đối với thế gian”. (Gl 6, 14) Linh đạo tự hủy biến thừa sai thành một người biết vâng phục, nghĩa là “có tâm tình như chính Ðức Kitô Giêsu”. (Pl 2, 5) Trút sạch chính mình để được đầy Thần Khí, bỏ ý mình để làm theo ý Chúa, bỏ lợi ích riêng để tìm lợi ích người khác, v.v. Ðó là định luật của hữu hiệu tính siêu nhiên: hạt giống phải chết để sinh hoa trái.  (x. Ga 12, 24) Đánh đổi tất cả, buông bỏ tất cả mọi giá trị tương đối và tạm bợ tại trần gian để chiếm hữu Thiên Chúa là gia nghiệp đời đời.

 5.    Linh Đạo Truyền Giáo,
        Một Linh Đạo Hiệp Thông
   
    Mối liên kết nội tại giữa hiệp thông và truyền giáo: “Đòi hỏi thiết yếu của đời sống trong Đức Kitô là bất cứ ai bước vào sự hiệp thông với Chúa cũng được mong đợi là sinh hoa trái: “Ai ở trong trong Thầy và Thầy ở trong người ấy, người ấy sẽ sinh nhiều hoa trái”. (Ga 15,5) Vì thế người không sinh hoa trái thì không ở trong sự hiệp thông: “Cành nào không sinh hoa trái thì Cha Thầy chặt đi”. (Ga 15,2) Hiệp thông với Chúa Giêsu đưa đến sự hiệp thông giữa các Kitô hữu, đó là điều kiện cần thiết để sinh hoa trái; và sự hiệp thông với người khác, vốn là ơn ban của Đức Kitô và Thánh Thần, là hoa trái tốt lành nhất mà các cành nho có thể cống hiến. Theo nghĩa đó, hiệp thông và truyền giáo (mission) không thể tách lìa nhau. Cả hai thẩm nhập vào nhau và bao hàm lẫn nhau, đến nỗi hiệp thông vừa là nguồn vừa là kết quả của truyền giáo: hiệp thông dẫn đến truyền giáo và truyền giáo được hoàn thành nhờ hiệp thông". Người tông đồ truyền giáo phải là con người của mối tình hiệp thông: hiệp thông với Chúa và hiệp thông với mọi thành phần Dân Chúa, nhờ Chúa Thánh Thần, Đấng hiệp nhất con người với Thiên Chúa và hiệp nhất con người với nhau.   
  
6.  Nhà truyền giáo đích thực, đó là một vị thánh
 
   Ðức Thánh Cha Gioan Phaolô II giải thích: Bởi bản tính, ơn gọi thừa sai phát sinh từ ơn gọi nên thánh.         Một thừa sai chỉ đích thực là thừa sai nếu biết cố gắng tiến bước trên đường thánh thiện. Thánh thiện là điều kiện tiên quyết, cơ bản và không thay thế được để thực hiện sứ mạng cứu độ của Giáo Hội. Ơn gọi phổ quát để nên thánh có quan hệ chặt chẽ với ơn gọi thừa sai… Linh đạo truyền giáo của Giáo hội là một đường lối dẫn đến thánh thiện. Vì thế, cần phải gợi lên giữa các thừa sai và trong toàn cộng đồng Kitô một lòng hăm hở mới, hăm hở trở nên thánh”. [9] “Các thừa sai phải suy nghĩ về bổn phận nên thánh mà ơn gọi của họ đòi hỏi, phải không ngừng cải thiện tinh thần, cùng canh tân kiến thức về giáo lý và mục vụ. Thừa sai phải là người "chiêm niệm giữa hoạt động." Ðức Giáo Hoàng lưu ý tiếp: “Nhất là tại Châu Á, thừa sai mà không phải là người chiêm niệm thì không thể loan báo Ðức Kitô cho đáng tin được. Thừa sai là chứng tá về kinh nghiệm Thiên Chúa, và phải có thể nói như các tông đồ: "Ðiều chúng tôi đã chiêm ngưỡng... về Lời sự sống... thì chúng tôi loan báo cho cả anh em nữa". [10] Và Tông Huấn Ecclesia in Asia nhắc lại rằng: “truyền giáo mà không có kinh nghiệm sâu sắc về Thiên Chúa qua cầu nguyện và chiêm niệm, thì ảnh hưởng được rất ít về mặt thiêng liêng, hoặc chẳng thành công được bao nhiêu về mặt truyền giáo”. [11]
     “Lời mời gọi truyền giáo tự bản chất bắt nguồn từ lời mời gọi nên thánh. Mỗi nhà truyền giáo chỉ đích thực là nhà truyền giáo khi dấn thân sống theo con đường thánh thiện: "Sự thánh thiện là nền tảng cốt thiết và là một điều kiện tuyệt đối không thể thay thế để chu toàn sứ vụ cứu độ của Giáo hội". (SVĐCĐ 90)
 “ Ơn gọi phổ quát nên thánh có liên hệ chặt chẽ với ơn gọi phổ quát của việc truyền giáo: mỗi tín hữu đều được mời gọi đến sự thánh thiện và đến việc truyền giáo. Vì thế, Công Đồng hết sức mong muốn "soi dẫn mọi người bằng ánh sáng của Chúa phản chiếu trên dung nhan Giáo hội bằng việc rao truyền Phúc âm cho mọi tạo vật". (LG 1) Linh đạo truyền giáo của Giáo hội là con đường dẫn đến sự thánh thiện”.
   “Nhà truyền giáo có thể tìm thấy câu giải đáp cho những vấn nạn dưới ánh sáng Lời Chúa và trong việc cấu nguyện cá nhân cũng như cộng đoàn. Việc tiếp xúc với các đại biểu của các truyền thống thiêng liêng ngoài Kitô giáo, nhất là của miền Châu Á, đã cho tôi dám khẳng định rằng tương lai việc truyền giáo tùy thuộc phần lớn vào việc chiêm niệm. Nhà truyền giáo, nếu không là một nhà chiêm niệm, thì không thể loan báo Đức Kitô với sức thuyết phục, họ phải làm chứng kinh nghiệm về Thiên Chúa và phải có thể nói như các Tông đồ: "điều chúng tôi đã cùng chiêm.... Ngôi Lời hằng sống..., chúng tôi loan báo cho anh em".
                                                                     (1Ga 1,1-3)
  “Nhà truyền giáo là người của các Mối Phúc. Trước khi sai mười hai Môn đệ đi loan báo Tin mừng, Đức Giêsu đã huấn luyện họ bằng cách chỉ cho họ thấy những con đường của việc truyền giáo: nghèo khó, dịu hiển, chấp nhận đau khổ và bách hại, khát mong công lý và hòa bình, bác ái, đó chính là các Mối Phúc, được thực hiện trong đời sống tông đồ. (Mt 5,1-12) Khi sống các Mối Phúc, nhà truyền giáo cảm nghiệm và biểu lộ cụ thể rằng Nước Thiên Chúa đã đến và họ đã đón nhận. Đặc tính riêng của mọi đời sống truyền giáo đích thực chính là niềm vui từ bên trong đến từ niềm tin. Trong một thế giới lo âu và bị ức chế bởi biết bao vấn đề, có khuynh hướng bi quan thì người loan báo Tin Mừng phải là một người đã tìm thấy niềm hy vọng chân thật nơi Đức Kitô”. (SVĐCĐ 91)

 + KẾT LUẬN

   Thời đại hôm nay là thời đại “truyền giáo mới”, vì đã xuất hiện những dấu chỉ của một thế giới đang đề cao công bình và tình thương đại kết, đang khao khát đi tìm chân thiện mỹ và hướng về tuyệt đối… những dấu chỉ này đang được biểu hiện nơi các dân tộc, đúng như tầm nhìn rất lạc quan và xác tín của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II trong thông điệp “Sứ Mệnh Đấng Cứu Độ”, ngài đã bày tỏ nhận định của ngài rằng: “Thiên Chúa Cha đang rộng mở cho Giáo Hội những chân trời của một nhân loại đã được chuẩn bị để đón nhận hạt giống Phúc Âm”. [SMĐCĐ 3.2] “Tôi nhìn thấy đang rạng ló một triều đại truyền giáo mới sẽ triển nở rạng rỡ và nặng trĩu hoa trái, nếu tất cả tín hữu của Chúa, đặc biệt, các vị tông đồ truyền giáo và các Giáo Hội trẻ đáp ứng lại những đòi hỏi cũng như những thách đố của thời đại hôm nay với lòng quảng đại và đời sống thánh thiện.”. [SMĐCĐ 92]
   Trước cánh đồng truyền giáo bao la, với ơn gọi thừa sai tự bản chất, người Kitô càng phải ra sức phát huy năng lực và khẩn trương thực hiện công cuộc truyền giáo cho mọi sắc dân ngay tại môi trường sống của mình. Đức thánh cha Gioan Phaolô II kêu gọi: “Các môn đệ Đức Kitô tại Châu Á phải hết lòng trong nỗ lực chu toàn sứ mạng đã lãnh nhận từ nơi Chúa.”. (x. Tông huấn Giáo Hội tại Á Châu – số 50 - ban hành ngày 06/11/1999 tại New Dheli - Ấn Độ.)  Rất cần chạy đua với thời gian! Gía trị siêu việt của ơn cứu độ con người bao giờ cũng hàm chứa tính khẩn thiết và ưu tiên tuyệt đối! Đặc biệt, đối với giới trẻ, xin hãy nhập tâm lời kêu gọi của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II nhân ngày thế giới truyền giáo năm 1985 với ngôn ngữ rất tha thiết và trang trọng:“Hỡi các bạn trẻ trên thế giới, các bạn hãy là những người loan báo Tin Mừng… Tôi kêu gọi các bạn và tôi sai phái các bạn ra đi, như Đức Kitô đã sai phái các tông đồ. Tương lai của Hội Thánh tùy thuộc vào các bạn, công cuộc Phúc Âm hóa thế giới trong những thập niên đang tới tùy thuộc vào các bạn!”.
   Trong Tông Huấn ‘Niềm Vui Tin Mừng’ (ban hành ngày 24/11/2013) – đức thánh cha Phanxicô kêu gọi: “Chúng ta hãy ở trong tình trạng truyền giáo thường trực”. Và ngài xác định: “Tôi luôn là một sứ mạng, bạn luôn là một sứ mạng; mỗi người nam người nữ đã chịu Phép Rửa là một sứ mạng,…Mỗi người chúng ta là một sứ mạng cho thế giới, vì mỗi chúng ta là kết quả tình yêu của Thiên Chúa.” [x. Sứ Điệp Ngày Thế Giới Truyền Giáo lần thứ 93 – 2019  của đức thánh cha Phanxicô “ĐƯỢC RỬA TỘI VÀ ĐƯỢC SAI ĐI: Hội Thánh Chúa Kitô thi hành sứ mạng trong thế giới.”]
   Trong Tông Huấn Christus Vivit, đức thánh cha Phanxicô đã kêu gọi các bạn trẻ ra đi truyền giáo với tất cả lòng nhiệt thành:“Chúa Giêsu sai chúng ta đi đâu? Không có biên giới, không có giới hạn: Người sai chúng ta đi khắp nơi. Tin Mừng dành cho mọi người chứ không chỉ dành cho một số người nào đó. Tin Mừng dành cho tất cả mọi người. Đừng ngại ra đi và mang Đức Kitô vào trong mọi lĩnh vực của cuộc sống, đến các ngoại biên xã hội, đến với cả những người có vẻ xa cách và hờ hững nhất. Chúa tìm kiếm mọi người; Chúa muốn mọi người cảm nhận được sự ấm áp của lòng xót thương và tình yêu của Người”. Chúa mời gọi chúng ta hãy trở thành những nhà truyền giáo không hề sợ hãi bất kể chúng ta ở đâu và trong bất cứ môi trường nào: trong các khu phố của chúng ta, trong trường học hoặc sân thể thao hay sinh hoạt xã hội, trong phục vụ thiện nguyện hay tại nơi làm việc. Bất cứ ở đâu, chúng ta luôn có cơ hội để chia sẻ niềm vui Tin Mừng. Các bạn trẻ thân mến, đó là cách Chúa ra đi để gặp gỡ mọi người. Chúa yêu thương các con, vì các con chính là các phương thế để Người có thể quang tỏa ánh sáng và hy vọng. Chúa đang trông chờ vào sự can đảm, sự táo bạo và nhiệt thành của các con”.  (Christus Vivit – 177)
                                                        
  Như thế, viễn tượng của lịch sử cứu độ Kitô trong thiên niên kỷ thứ ba tùy thuộc vào sự dấn thân đảm trách truyền giáo của những người trẻ hôm nay. Cuộc dấn thân này không dễ thực hiện, dẫu thế, chắc hẳn người tông đồ không ngần ngại “đến với muôn dân”, bởi xác tín rằng: sứ mạng truyền giáo là một ơn gọi thánh thiêng, đây là một sự dấn thân trong tình yêu cứu thế hiện sinh để Thần Khí dẫn đưa người tông đồ bước vào viên mãn niềm vui và hy vọng: “Gieo trong nước mắt, gặt trong hân hoan.”
    Dưới ánh sáng của mặc khải, một khi đã xác tín và nhận thức được truyền giáo là bản chất đời sống Giáo Hội, thì hơn ai hết, với ơn gọi thừa sai được trao phó, người tông đồ hãy lên đường “đến với muôn dân” bằng một tình yêu cứu thế phổ quát và bằng một lòng nhiệt thành cao độ, thể hiện tuyệt hảo đời sống truyền giáo; đến nỗi có thể nói như vị Thánh Tông Đồ rằng: “Tất cả, tôi làm chỉ vì Phúc Âm”!.   [I Cr 9, 22-23/ SVĐCĐ 88]
    Đã đến lúc mọi người tông đồ của Thiên Chúa rất cần khẩn cầu tha thiết xin  ơn biết lắng nghe, sẵn sàng vâng phục Thần Khí và “Bước theo Thần Khí”; nhờ đó, có thể đón nhận dồi dào sức mạnh sáng tạo của Người, để Người trao ban sung mãn nghị lực cho tâm hồn và hướng dẫn người tông đồ rao giảng Lời của Đức Kitô trong từng bối cảnh đặc thù của các dân tộc.
   Nếu được như thế, thiên niên kỷ thứ ba của lịch sử nhân loại sẽ phản ánh Nước Thiên Chúa ngày càng rạng rỡ hơn, và sẽ hiện rõ khuôn mặt đích thực của Hội Thánh Công Giáo, một Hội Thánh phục vụ cho vinh danh Thiên Chúa và ơn cứu độ nhân loại, một Hội Thánh của mọi dân mọi nước trong mối hiệp thông huyền nhiệm và đang hướng về vinh quang hạnh phúc viên mãn của “TRỜI MỚI ĐẤT MỚI”, nơi Thiên Chúa Ba Ngôi muôn đời hiển trị.

*******************************************
                          THAM KHẢO                                       
       . [1]  (GLHTCG 2684)
       . [2]  (x. TỪ ĐIỂN CÔNG GIÁO - 500 MỤC TỪ -
                 NXB TÔN GIÁO   - 2011    trang 362-363).            
      . [3]  (x. Mc 16,15; Mt 28,19-20;  GLHTCG 849)
       . [4]  (x. GLHTCG 850)    (x. GLHTCG 854)
       . [5]  (x.TG 21).   [6]  (x. SMĐCĐ 48).      
       . [7]  (x. TG 5; GLHTCG 856).         
       . [8]  (x. TỪ ĐIỂN CÔNG GIÁO - 500 MỤC TỪ -
                NXB TÔN GIÁO   - 2011  trang 362-363)     
       . [9]   (SMĐCĐ 91)
       . [10] (1Ga 1, 1-3) ( SMĐCĐ 91)
       . [11] (SMĐCĐ 23)
       . 12]  (SMĐCĐ 88) 
       . [13] (SMĐCĐ 24),  
       . [14] (GH 10a)
       . [15] (GH 26a).
       . [16] (GH 33b).
         *** [Tóm Lược và soạn thảo theo Linh Đạo Truyền Giáo của
                linh mục Felipe Gómez - SJ. Truyền Giáo Học - 2006 –
                Antôn & Đuốc Sáng  - Trang 171-186]
 
                                                          
                                                         
                NHỮNG XÁC ĐỊNH CĂN BẢN
           ĐỐI VỚI SỨ VỤ TRUYỀN GIÁO
         ***************************************
1.  Nền tảng thần học của sứ vụ truyền giáo –
    Truyền giáo là bản chất của Giáo Hội
 
  Giáo Hội được thiết lập để trở nên “Bí tích cứu độ phổ quát” cho toàn thể nhân loại theo ý định từ đời đời của Chúa Cha, “Đấng muốn cho mọi người được cứu độ”. [1Tm 2,4] Chính Chúa Kitô, Đấng sáng lập Giáo Hội, đã xác nhận căn tính của Giáo Hội bằng cách trang trọng ban hành một mệnh lệnh cuối cùng, lệnh truyền giáo: “Các con hãy đi khắp thế gian, rao giảng Tin Mừng cho mọi loài thụ tạo”. [Mt 28,19-20. Mc 16,15. Lc 10,1-7] Thánh Công Đồng chung Vatican II đã minh định rằng: “Tự bản chất, Giáo Hội lữ hành phải truyền giáo, [TG 1.2/ GH 17] “vì chính Giáo Hội bắt nguồn từ sứ mạng của Chúa Con và Chúa Thánh Thần theo ý định của Chúa Cha”, [TG 1.2/Ga 3,16/ Rm 8, 10-11/Cl 1,15] và “Tự bản chất, ơn gọi làm người Kitô cũng là ơn gọi làm tông đồ”. [TĐGĐ 2] Trong Tông Huấn “Loan Báo Tin Mừng” [Evangelii nuntiandi] Đức Phaolô VI đã làm nổi bật lý do hiện hữu và tồn tại của Giáo Hội: “Giáo Hội hiện hữu là để truyền giáo”. [LBTM.14/TG 2.5.6] Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II cũng quả quyết về căn tính truyền giáo của Giáo Hội: “Giáo Hội là một cộng đoàn ở trong tình trạng thừa sai đời đời”.  [Gioan Phaolô II, ngày thế giới truyền giáo 1985]
           
   Như thế, ơn gọi và sứ mệnh truyền giáo của Giáo Hội được đặt ra trên nền tảng thần học dựa theo nguồn mạc khải. Bởi đó, ơn gọi thánh thiêng này, căn tính cao cả này của Giáo Hội luôn luôn được Giáo Hội cổ võ và thể hiện ở mọi thời mọi nơi, cho các dân tộc trên toàn thế giới: “Giáo Hội vừa hoạt động vừa cầu nguyện để toàn thế giới biến thành Dân Thiên Chúa”. [GH 17]
   Bởi đó, nếu có những hình thức bất trung hay dửng dung đối với sứ vụ truyền giáo thì người tông đồ tự đánh mất căn tính của mình, người tông đồ bị vong thân! “Khốn cho tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng!”. (1 Cr 9,16)  

2.   Chúa Thánh Thần, Đấng chủ động
      trong sứ vụ truyền giáo  
 
 “Chúa Thánh Thần, Đấng chủ động trong sứ vụ truyền giáo”. [SVĐCĐ 30]. Chính Người là nguyên lý hiệp nhất: Hiệp nhất con người nên một trong Thiên Chúa và nên một với nhau để cùng tuyên xưng một đức tin. [Cv 2,42-47/4,32-35] Chúa Thánh Thần hiện diện trong mọi người khắp mọi nơi, làm cho Giáo Hội trở thành thừa sai. [SVĐCĐ 21.26-28]
    “Ai cũng biết ĐGH Gioan Phaolô II rất lưu tâm đến các đề tài về Thần Khí Học. Người ta có thể nói rằng không có một tư liệu chính thức nào mà Ngài không làm nổi bật hành động của Chúa Thánh Thần. Thông điệp “Dominum et vivificantem” được xem như tột đỉnh của giáo huấn về Thần Khí Học của Đức Giáo Hoàng. Một phần của giáo huấn này được lặp lại trong tông thư “Tertio Millennio Adveniente”, đặc biêt, ở các số 44-48.
    Đức Giáo Hoàng có một cái nhìn sâu rộng về lịch sử cứu độ. Cách nhìn này bắt nguồn nơi các Giáo Phụ. Ngài cũng đặt việc cử hành Năm Toàn Xá vào chính trong sự năng động của cách nhìn này. Lịch sử cứu độ bắt nguồn từ mầu nhiệm Ba Ngôi trong tất cả trương độ của nó, từ lúc khởi đầu cho đến khi chấm dứt. Ngôi Lời được Thiên Chúa Cha sai đến, dần dần nhập thể vào lịch sử qua hành động của Chúa Thánh Thần: “Năm Toàn Xá, năm kết thúc thiên niên kỷ thứ hai, như tôi đã viết trong thông điệp “Dominum et vivificantem”, có một hình thái Thần Khí Học, vì mầu nhiệm Nhập Thể đã hoàn tất “Nhờ Chúa Thánh Thần”. Chính Thần Khí này đã “thực hiện” điều đó, Người, Đấng đồng bản thể với Chúa Cha và Chúa Con, trong mầu nhiệm Thiên Chúa duy nhất và Ba Ngôi, Người là Ngôi Tình Yêu, là Hồng Ân không bởi tạo thành, Người là nguồn suối vĩnh cửu của mọi hồng ân từ Thiên Chúa đến trong trật tự tạo vật, là nguyên lý trực tiếp, và nói được, là chủ thể của sự hiệp thông mà Thiên Chúa nhờ chính Người thực hiện, mầu nhiệm nhập thể đã đạt đến đỉnh cao.    (số 44)
    Mầu nhiệm Ngôi Lời nhập thể, mầu nhiệm làm tròn lịch sử, đặc biệt là trong hai thiên niên kỷ Kitô giáo vừa qua, không thể được tái khám phá, được thực nghiệm và được gợi lại cho những người của thiên niên kỷ thứ ba, nếu không nhờ Chúa Thánh Thần: “Điều mà trong sự viên mãn của thời gian đã hoàn tất nhờ Chúa Thánh Thần, thì bây giờ cũng chỉ có thể nhờ Người mới tái xuất hiện được trong Giáo Hội”. (số 44) Đức Giáo Hoàng thấy sự hiện hữu nơi hành động của Chúa Thánh Thần, đặc biệt trong công việc rao giảng Tin Mừng của Giáo Hội, một công việc mà trong một ý nghĩa nào đó dùng để làm chiếc cầu nối giữa biến cố với sự truyền lại và hiện thực hóa biến cố đó: “Đối với thời đại chúng ta, Thần Khí cũng là tác nhân chính của việc Phúc Âm hóa mới. Vậy cần phải tái khám phá Thần Khí như Đấng tạo dựng vương quốc của Thiên Chúa trong suốt lịch sử, và chuẩn bị sự tỏ hiện đầy đủ của Thiên Chúa trong Đức Giêsu Kitô, bằng cách thúc đẩy nhân loại từ bên trong, và làm cho các mầm của sự cứu độ vĩnh viễn sẽ xảy đến vào lúc tận cùng thời gian, được mọc lên trong đời sống nhân loại”. (số 45)Trong ý nghĩa này, người ta hiểu được tại sao Đức Giáo Hoàng huấn dụ các Kitô hữu phải chuẩn bị cho Năm Toàn Xá bằng cách tái khám phá Thần Khí: “Giáo Hội không thể chuẩn bị cho việc hết hạn kỳ hai thiên niên kỷ bằng cách nào khác hơn là trong Chúa Thánh Thần”. (số 44)
  Thần Khí là nguyên lý tối hậu của mọi hoạt động Thần Linh trong chúng ta. Điều này có giá trị đối với điều mà chúng ta gọi là “sự hiểu biết về Thiên Chúa”; trong truyền thống Kitô Giáo Phương Đông và Phương Tây, hiểu biết Thiên Chúa có nghĩa là hiệp thông với Người, là có kinh nghiệm về Thiên Chúa. Sự kết hợp này với Thiên Chúa, truyền thống Đông Phương gọi là “Thần Thánh Hóa” (divinisation). Chính trong quá trình Thần Thánh Hóa này mà công việc của Thần Khí hiện diện một cách đặc biệt, Thiên Chúa Cha tự trao mình cho chúng ta vì công cuộc cứu độ của Đức Kitô, nhờ đó Người cho chúng ta trở thành “Những người con trong Chúa Con”. Nhưng chúng ta chỉ được “Kitô hóa”, khi chúng ta được tâm linh hóa” (spiritualisés), nghĩa là được biến đổi trong Thần Khí. Con người được “tâm linh hóa”, “hiểu biết” Thiên Chúa bằng cách thông hiệp với Người. Nhưng sức mạnh thần hóa này không bị khép kín trên chính nó, mà lan rộng ra đến những người khác nữa. Đây là một sự “khuếch tán theo chiều ngang” thực sự của Thần Khí. Các Thánh mang tính của Thiên Chúa – Palamas quả quyết – và chẳng những các ngài tham dự vào bản tính Thiên Chúa mà còn chia sẻ lại cho những người khác nữa; chẳng những các ngài sống, mà còn làm cho người khác sống, tất cả những cái đó không phải là một cái gì thuộc về sức mạnh thụ tạo đơn thuần. “Các thánh trở nên khí cụ của Thần Khí, để ban cho khắp trong Giáo Hội những việc lạ lùng của ân sủng thần hóa”; đó là tại sao các thánh là khí cụ của Chúa Thánh Thần, sau khi đã nhận được năng lực của Người. Đó là tại sao, trong truyền thống Đông Phương, để có thể loan báo sứ điệp của Tin Mừng thì trước tiên phải làm cho mình có kinh nghiệm về Thiên Chúa. Vậy người ta có thể hiểu tại sao, đối với người Đông Phương, việc rao giảng Phúc Âm gồm trước nhất là làm chứng sự Kitô hóa đã đến trong con người, đã được thanh luyện trong quyền năng của Thần Khí.  Việc rao giảng Tin Mừng không thu hẹp vào việc đơn giản làm chứng bằng cuộc sống. Trong thế giới Đông Phương cũng vậy, nó thường được đi kèm bởi sự loan báo bằng lời nói; Nhưng lời nói cũng vậy, nó cũng được làm chứng, và đồng thời được loan báo. Nó luôn có mục đích, không phải là nối lên một sự thật trừu tượng, mà truyền thông đời sống thần linh cho người khác, và chính ngay ở đó mà Thần Khí, “Đấng ban sự sống”, tỏ ra tất cả quyền năng làm sống động của mình, hoặc trong lời nói được loan báo, hoặc trong người loan báo và trong người lãnh nhận lời nói đó.
   Nếu chuyển thông lại lời nói bằng sự làm chứng tức là rao giảng Tin Mừng, trước hết có nghĩa là làm cho lời thấm nhập vào bản thân, rồi sau đó làm cho nó được thấm nhập vào trong những người khác và nếu điều đó chỉ có thể thực hiện trong Thần Khí, thì thật là khẩn cấp phải luôn luôn để cho mình được quyền năng của Đấng Bảo Trợ tâm linh hóa mình hơn. Mầu nhiệm cứu độ là thuộc về Kitô học, nhưng Chúa Thánh Thần lại cần thiết cho việc Kitô hóa chúng ta. Để cho con người trở thành Christophore (người mang Đức Kitô trong lời nói và trong đời sống) thì trước hết, con người phải là Pneumatophore (người mang Thần Khí). Chỉ có Thần Khí đang sống trong con người mới có thể thể hiện Đức Kitô qua con người đó. Vậy người ta có thể nói rằng con người trở nên chứng nhân và là người mang Đức Kitô, vì con người đã trở nên “Tràn đầy Thần Khí” và là người mang Thần Khí.
  Việc “rao giảng Tin Mừng mới”, là việc phải chuẩn bị cho những con người của nghìn năm thứ ba tái khám phá Đức Kitô, không thể bị hạn chế vào những cuộc gặp gỡ, những sự công bố, những tổ chức… Điều mà Giáo Hội tuyệt đối cần, đó là một Lễ Hiện Xuống mới, một sự tràn đầy Thần Khí mới. Chỉ khi Giáo Hội được tràn đầy Thần Khí, Giáo Hội mới có thể trao Đức Kitô cho loài người. Điều mà thánh Gioan Kim Khẩu đã viết, ngày nay vẫn còn giá trị: “Các tông đồ không phải là từ trên núi xuống như Môsê, tay cầm những bia đá. Họ từ trong nhà tiệc ly đi ra, mang Chúa Thánh Thần trong lòng họ, và hiến dâng tất cả mọi nơi, những kho báu khôn ngoan và ân sủng, cũng như những hồng ân thiêng liêng xuất phát từ một nguồn suối đang tuôn chảy. Thật vậy, họ đi rao giảng trong toàn thế giới, dường như chính họ là đức tin sống động, những quyển sách đầy sinh khí ân sủng của Chúa Thánh Thần”. Nếu thật như thánh Irênê đã nói là nhờ Thần Khí, “chúng ta thấy, nghe, nói” thì việc đầu tiên cần cho Giáo Hội, là người muốn Phúc Âm hóa nhân loại bằng cách trước tiên Phúc Âm hóa bản thân mình, đó là tái khám phá “tiếng nói” của Thần Khí, và truyền lại cho thế giới để Kitô hóa thế giới”. [Trích “Chúa Thánh Thần, tác nhân chính của việc phúc âm hóa mới” – Yannis Spiteris].

3.   Chiều kích của hoạt động truyền giáo

3.1 * Chiều kích nội tâm [chiều sâu]
    Công Đông Vatican II qua sắc lệnh Truyền Giáo thường ít đề cập đến sự tăng trưởng địa lý trong hoạt động truyền giáo, nhưng lại nhấn mạnh đến vấn đề Giáo Hội phải bén rễ sâu trong mọi nền văn hóa dị biệt của các dân tộc; đây là chiều kích của hội nhập văn hóa song song với hoạt động truyền giáo. Chính vì thế mà mỗi cộng đoàn Kitô phải luôn luôn tái Phúc Âm hóa [Re-Evangelization] tại môi trường sống của mình khởi đi từ việc mỗi người Kitô thực hành Tin Mừng Cứu Độ mỗi ngày một hoàn hảo hơn. [xem TG 11.21/ TĐGĐ 18]

3.2* Chiều kích địa lý và xã hội [chiều rộng]
   Công cuộc truyền giáo theo nghĩa hẹp và chính xác bao gồm hai tác động: Công bố Tin Mừng cứu độ của Chúa Kitô và thiết lập cộng đoàn Kitô trong đức tin, trong phụng vụ, trong qui luật của Giáo Hội và trong sự hiệp thông với hàng giáo phẩm. Một khi Giáo Hội địa phương đã được thành hình, “công cuộc truyền giáo không chấm dứt với việc thiết lập cộng đoàn bản xứ, nhưng phải được tiếp tục cho đến khi mọi người trong đia phương đó trở thành người Kitô”. Việc truyền giáo thiết yếu là làm cho Tin Mừng được nội tâm hóa nơi con người, từ đó phát sinh hiệu quả Giáo Hội được tăng trưởng về phương diện dân số và không gian địa lý. [xem TG 6]

4. Học thuyết xã hội, Phúc Âm hóa và việc thăng tiến con người
   Học thuyết xã hội là một phần cần thiết để cho tác vụ Phúc Âm hóa của Giáo Hội nên trọn vẹn. Không có gì liên quan đến cộng đồng nhân loại những tình huống và những vấn đề liên quan đến công lý, tự do, phát triển, quan hệ giữa các dân tộc, hòa bình - mà nằm ngoài công cuộc Phúc Âm hóa; việc Phúc Âm hóa sẽ thiếu sót nếu không xét tới các đòi hỏi liên tục của Tin Mừng đối với đời sống cá nhân và xã hội, cụ thể của con người.
  Giữa việc Phúc Âm hóa và việc thăng tiến con người có những mối liên hệ hết sức sâu xa: "trong đó có mối liên hệ thuộc phạm vi nhân học, vì con người được Phúc Âm hóa không phải là một hữu thể trừu tượng mà là một hữu thể lệ thuộc các vấn đề kinh tế và xã hội. Trong đó cũng có mối liên hệ thuộc phạm vi thần học, vì chúng ta không thể tách rời bình diện sáng tạo với bình diện cứu chuộc. Bình diện cứu chuộc đụng chạm tới chính những tình huống công bằng cụ thể cần phải được khôi phục. Trong đó còn có mối liên hệ nổi bật thuộc phạm vi Tin Mừng, tức là phạm vi đức ái: làm sao có thể công bố điều răn mới mà không tìm cách thăng tiến con người một cách đích thực trong công lý và hòa bình?”. (HTXH của GHCG số 66)
    Học thuyết xã hội của Giáo Hội “tự nó là một công cụ hữu hiệu để Phúc Âm hóa”,” và học thuyết ấy được khai sinh là bởi những cuộc gặp gỡ luôn mới mẻ của thông điệp Tin Mừng với đời sống xã hội. Nếu hiểu như thế thì học thuyết xã hội chính là một phương cách đặc biệt để Giáo Hội thi hành tác vụ rao giảng Lời Chúa và làm ngôn sứ. Việc làm có liên quan tới sứ mệnh Phúc Âm hóa của Giáo Hội và là một phần thiết yếu trong thông điệp Kitô Giáo, vì học thuyết ấy cho biết những hậu quả cụ thể của thông điệp này trong đời sống xã hội, cũng như đặt những việc làm hằng ngày và những cuộc đấu tranh cho công lý mỗi ngày vào trong bối cảnh làm chứng cho Đức Kitô Cứu Thế”. Đây không phải là một bận tâm hay một hoạt động bên lề, hoặc chỉ là một bận tâm hay một hoạt động gắn thêm vào sứ mạng của Giáo Hội, mà đúng hơn đó chính là trọng tâm công tác phục vụ của Giáo Hội: với học thuyết xã hội, Giáo Hội “công bố Thiên Chúa và mầu nhiệm cứu độ của Ngài trong Đức Kitô cho hết mọi người, và đó cũng chính là cách để giúp con người biết mình là ai”. Đây là một tác vụ không chỉ xuất phát từ việc công bố mà còn phát xuất từ việc làm chứng.  (HTXH của GHCG số 67)
   Với giáo huấn xã hội của mình, Giáo Hội tìm cách công bố Tin Mừng và làm cho Tin Mừng hiện diện trong hệ thống phức tạp các mối quan hệ xã hội. Không phải chỉ là làm sao đem Tin Mừng đến được với con người trong xã hội - con người là kẻ tiếp nhận Tin Mừng được công bố - mà còn là làm sao cho xã hội được thấm nhuần Tin Mừng và được phong phú lên nhờ Tin Mừng. Bởi đó, đối với Giáo Hội, chăm lo cho các nhu cầu của con người chính là đưa xã hội vào trong công cuộc truyền giáo và cứu độ của mình. Cách con người sống với nhau trong xã hội thường chi phối chất lượng cuộc sống của họ, nghĩa là chi phối các điều kiện sống, trong đó con người hiểu nhau và đưa ra những quyết định về bản thân họ. Chính vì lý do đó, Giáo Hội không thể thờ ơ với những gì con người quyết định, thực hiện hay trải nghiệm trong xã hội; Giáo Hội quan tâm tới những tính chất luân lý của đời sống xã hội, tức là quan tâm tới những khía cạnh đúng là của con người và làm nhân bản hóa đời sống xã hội của con người. Xã hội - và cùng với xã hội, chính trị, kinh tế, lao động, luật lệ và văn hóa - không chỉ đơn thuần là một cái gì trần tục ở thế gian này và vì thế xa lạ đối với thông điệp cứu độ và nhiệm cục cứu độ. Thật vậy, xã hội và tất cả những gì được thực hiện trong xã hội, luôn có liên quan tới con người. Xã hội được thiết lập bởi những con người, mà con người lại cũng chính là “lộ trình quan trọng nhất và căn bản của Giáo Hội”.  (HTXH của GHCG số 62)
                                                 
5. Ý nghĩa của từ ngữ “Tân Phúc Âm hóa”
    (New- Evangelization / Neo Evangelizatio)
     Năm 1983, tại Haiti, khi nói chuyện với Hội Đồng Giám Mục Châu Mỹ Latinh về tầm quan trọng của công cuộc Phúc Âm hoá tại các nước này, ĐTC Gioan Phaolô II nói: “Việc kỷ niệm nửa thiên niên kỷ Phúc Âm hoá sẽ có đẩy đủ ý nghĩa của nó nếu chư huynh trong tư cách giám mục biết dấn thân cùng với hàng linh mục và giáo dân của mình, một dấn thân không phải để tái Phúc Âm hoá mà là để tân Phúc Âm hoá.         Về mặt từ ngữ, chúng ta có thể giải thích: Tân Phúc Âm hoá là việc (hay cuộc, công cuộc) Phúc Âm hoá mới. Mới, không phải ở bản chất hay nội dung của Phúc Âm, mà là “mới trong sự nhiệt thành, mới trong phương pháp và mới trong lối diễn tả". Mới về lòng nhiệt thành là làm mới lại tương quan giữa bản thân chúng ta với Đức Giêsu Kitô, để mối tương quan ấy hướng dẫn toàn bộ đời sống chúng ta. Mới trong phương pháp là biết vận dụng những phương pháp và công nghệ hiện đại thích hợp để đáp ứng sự thay đổi nhanh chóng của thời đại về nhiều mặt, văn hóa, xã hội cũng như kỹ thuật. Mới trong cách diễn tả là cố gắng nghiên cứu và sử dụng những cách diễn tả phù hợp, để con người hôm nay có thể hiểu và lĩnh hội được sứ điệp Phúc Âm". [x. Thư Chung Hội Đồng Giám Mục Việt Nam 2013 -  'Hội Thánh Việt Nam và công cuộc Tân Phúc Âm Hóa - số 4]. "Tìm cách công bố Tin Mừng và  làm cho Tin Mừng hiện diện trong hệ thống phức tạp các mối quan hệ xã hội... làm sao đem Tin Mừng đến được với con người trong xã hội... làm sao cho xã hội được thấm nhuần Tin Mừng và được phong phú  lên nhờ Tin Mừng". (HCMV 40)
  Cho nên, 'tân Phúc Âm hoá' không phải là làm lại một cái gì đã làm không đầy đủ hay không đạt mục đích của nó, như thể hoạt động mới này là một sự phê phán mặc nhiên về thất bại của cuộc Phúc Âm hoá thứ nhất. Tân Phúc Âm hoá cũng không phải là lại tiếp tục cuộc Phúc Âm hoá thứ nhất, hay đơn giản là lặp lại quá khứ. Ngược lại, đây là sự dũng cảm mở ra những con đường mới để đáp lại những hoàn cảnh và điều kiện thay đổi mà Hội Thánh đang đối diện trong việc thực thi ơn gọi loan báo Tin Mừng và sống Tin Mừng hôm nay...".       Hiện nay, bên cạnh “tân Phúc Âm hóa”, thuật từ “New Evangelization” còn được dịch là: tái truyền giảng Tin Mừng, canh tân truyền giảng Tin Mừng, việc tân truyền bá Phúc Âm hóa, cuộc loan báo Tin Mừng  mới, loan báo Tin Mừng cách mới mẻ.
        (x. daminhvn.net) (x. Báo Hiệp Thông – Số 92 /  trang 233. 234)  
**********************************************************                                                                                                                                                  BMT - 13.7.2025          
                                                                                             Lm Gc Phạm Xuân Lương       
                                                                                                                                                                                                                                                                 
                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                
                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                     
         
                                  






 

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết
Video
THÁNH LỄ KHAI MẠC THĐGMTG LẦN THỨ XVI - 2023
tin mung hang ngay copy
THỨ BẢY - 17g30 14/10/2023
TẬP SAN GHXHCG
CHO TRÁI ĐẤT THÊM XANH - SỐ 6
CHO TRÁI ĐẤT THÊM XANH - SỐ 7
HÌNH PVGK
SUY NIỆM LCCN
CHÚNG TA ĐÃ CÓ GIÁO HOÀNG
THỨ BẢY - 17g30 07/9/2025 (CN XXIII TN.C)
CHÚA NHẬT - 17g30 07/9/2025
THỨ HAI - 17g30 08/9/2025
THỨ BA 17g30 09/9/2025
THỨ TƯ - 17g30 10/9/2025
THỨ NĂM - 17g30 11/9/2025
THỨ SÁU - 17g30 12/9/2025
THỨ BẢY - 17g30 13/9/2025
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây