TRƯỞNG THÀNH NHÂN BẢN TOÀN DIỆN

Thứ sáu - 18/07/2025 23:37
        
         TRƯỞNG THÀNH NHÂN BẢN TOÀN DIỆN
           
            + DẪN NHẬP
            1.  Trưởng Thành Nhân Bản
            2. Trưởng Thành Nhân Bản Kitô giáo
            3. Trưởng Thành Nhân Bản Đời Tu

        + KẾT LUẬN
 ********************************************************                          
          + DẪN NHẬP

  
  Thánh Phaolô căn dặn:“Tất cả những gì là chân thật, là cao thượng, là công minh, là trong trắng, là dễ mến, là đáng kính phục, tất cả những gì được coi là tốt đẹp về mặt nhân đức nhân bản và về những điều được người đời ca ngợi, anh em hãy chú trọng tất cả những điều ấy”.     (Pl 4,8)
   “Sự trưởng thành nhân bản và cách riêng sự trưởng thành về mặt cảm tính đòi hỏi một nền đào tạo trong suốt và cương nghị... đòi hỏi con người phải thực sự làm chủ chính mình, dứt khoát chiến đấu và thắng vượt mọi hình thái vị kỷ và cá nhân chủ nghĩa vốn đe dọa đời sống mỗi người, mau mắn cởi mở đối với tha nhân, quảng đại trong sự tận tụy và trong việc phục vụ đối với tha nhân. Tất cả những điều ấy đều quan trọng để có thể đáp trả ơn gọi, để có thể trung thành với ơn gọi và với những cam kết gắn liền với ơn gọi, nhất là trong những giai đoạn khó khăn”.  [1*] 
 
  “Việc đào tạo là một tiến trình thống nhất và tiệm tiến qua từng giai đoạn, trong đó ứng sinh được quan tâm đào tạo từ khởi đầu tIến trình ơn gọi cho đến khi an vui trở về với Chúa”.    [2*]    
                                     
 
   “Mục  đích  của  việc  đào  tạo  trong  Dòng Đức Maria  Nữ  Vương  Hòa  Bình nhằm giúp chị em
trưởng thành toàn diện về nhân bản, tri thức, đời sống thiêng liêng và mục vụ truyền giáo theo đặc sủng, linh đạo và đường hướng của Dòng, để thánh hiến toàn thân cho Thiên Chúa trong việc bước theo Chúa Kitô và trở thành chứng nhân Tin Mừng Hòa Bình”.   [3*]  

 
  “Sự trưởng thành nhân bản toàn diện, (nhân bản làm người nói chung, nhân bản kitô giáo làm người tín hữu và nhân bản đời tu làm linh mục / tu sĩ), không phải là một thực tại tĩnh đã được kiện toàn chung cục và cố định, mà là một thực tại động và đang trở thành, đang thay đổi theo hướng thăng tiến hoặc thoái hóa. Chẳng hạn cuối giai đoạn đào tạo, ứng sinh phải được xác nhận là đã đạt được một mức độ trưởng thành khả dĩ mới cho chịu chức thánh, khấn dòng. Theo lý tưởng thì sự trưởng thành ấy sẽ ngày càng được tăng tiến với thời gian và kinh nghiệm. Nhưng nơi một số linh mục - tu sĩ trẻ thì ngược lại, đến nỗi bị phê bình là thiếu nhân bản, hay đúng hơn là đang ở vào lúc sự trưởng thành bị thiếu hụt…không làm chủ được cảm xúc nóng giận hoặc trái ý mà mắng chửi giáo dân ngay cả trên tòa giảng là nơi chỉ dành để nói Lời Chúa, thậm chí đánh cả giáo dân và người cộng tác dưới quyền”. [4*]
   Chúng ta coi đây là những lúc sự trưởng thành bị thiếu hụt trong tiến trình đang trở nên trưởng thành. Bao lâu con người còn sống là còn thay đổi, hoặc tốt hơn hoặc xấu hơn, cho đến khi hoàn tất cuộc đời.

  TRƯỞNG THÀNH NHÂN BẢN TOÀN DIỆN
 
  1. TRƯỞNG THÀNH NHÂN BẢN
   
  “Nhân là người, bản là gốc rễ, là nền tảng… Nhân Bản là tập hợp những điều căn bản của con người từ khi được hình thành trong dạ mẹ, vốn tốt lành tự nhiên. (“nhân chi sơ tính bổn thiện”) Nhưng vì con người là một sinh vật có lý trí, có tăng trưởng theo dòng thời gian và chịu ảnh hưởng của môi trường sống chung quanh nên cái gốc rễ ấy sẽ không mãi mãi được bảo trì như ban đầu, (“tính tương cận”) mà sẽ dần dần biến đổi theo chiều hướng tích cực hoặc tiêu cực, tùy theo sự ảnh hưởng đó là tốt hay xấu, chứ không còn giống nhau như trước nữa”. (“tập tương viễn”)
  “Như thế, chúng ta nhận thức được sự can thiệp vô cùng quan trọng của việc giáo dục nhân bản, tức là giáo dục một con người từ lúc chưa ý thức mình là người trở thành một người có nhân cách. Vậy nhân bản là thái độ sống, thái độ nhìn đời, thái độ cư xử của một người hợp với những quy tắc mà mọi người thừa nhận. Và giáo dục nhân bản là đặt ra những định chế để hướng dẫn hay sửa chữa những lệch lạc, sai lầm nhằm thăng tiến con người hoàn thiện. Từ đó ta gọi nhân bản là “đạo nhân = đạo làm người”, là đường lối và lẽ sống, là cách đối nhân xử thế trong cuộc sống hợp quần của con người với nhau. 
  “Điều linh mục, tu sĩ  được đòi hỏi trước tiên là phải có sự trưởng thành nhân bản, nghĩa là phải btrở nên một con người đích thực là con người (thành nhân), được biểu hiện ra bên ngoài qua những đức tính tự nhiên hoặc do tập luyện mà đạt được nhân cách cao quý, như tác phong tốt đẹp, suy nghĩ chín chắn khôn ngoan, ý chí tự chủ, kiên quyết, tâm tính quân bình, điềm tĩnh, cư xử hài hòa, quảng đại vị tha…”.

   “Huấn Thị Hình ảnh Giáo Hội Hôn Thê của Chúa Kitô dạy “phải kiểm chứng sự trưởng thành nhân bản của các ứng sinh: đương sự phải nhận biết thực tiễn về bản thân, và ý thức khách quan về những năng khiếu và giới hạn của mình, khả năng tự quyết và lãnh nhận trách nhiệm; khả năng thiết lập những tương quan lành mạnh, thanh thản, với những người nam nữ, hiểu biết đúng đắn về giá trị hôn nhân và chức phận làm mẹ, khả năng hội nhập tính dục vào trong căn tính bản thân, và điều khiển những năng lực tình cảm để có thể diễn tả nữ tính của mình trong một cuộc sống khiết tịnh, cởi mở đối với một sự phong phú tinh thần rộng lớn hơn… Ngoài ra phải có khả năng làm việc, nghề nghiệp, để có thể tự lực mưu sinh một cách xứng đáng, có khả năng dựa trên kinh nghiệm đương đầu với những đau khổ và bất mãn, cũng như trao ban và nhận lãnh tha thứ, biết giữ lời hứa và chu toàn những cam kết đã đưa ra, có khả năng sử dụng của cải trong tinh thần trách nhiệm, sử dụng các phương tiện truyền thông và thời giờ rảnh rỗi”.  [5*]

   2. TRƯỞNG THÀNH NHÂN BẢN KITÔ GIÁO
  
    “Đức Thánh Cha Phanxicô tuyên bố: “Nền nhân bản Kitô giáo đặt trọng tâm nơi Chúa Giêsu-Kitô, nơi đó chúng ta khám phá khuôn mặt đích thực của con người. Nền nhân bản Kitô giáo không phải là thứ chủ nghĩa tự quy về mình, lấy mình làm trung tâm, nhưng luôn luôn hướng đến người khác, nỗ lực làm việc để cho thế giới tốt đẹp hơn. Chúa Giêsu cho chúng ta thấy con đường dẫn đến hạnh phúc là con đường của Tám Mối Phúc Thật… Tuy đơn sơ, nhưng thực tiễn, giúp chúng ta sống đời sống Kitô hữu đến mức lành thánh… Nếu Giáo Hội đánh mất đi tâm tình như đã có nơi Chúa Giêsu, Giáo Hội sẽ mất phương hướng và cũng đánh mất diệu cảm của mình… Các cải cách của Giáo Hội phải bắt nguồn từ Chúa Kitô và phải để cho Chúa Thánh Thần hướng dẫn [6*].
   Vì thế, Công Đồng Vaticanô II dạy: “Mọi Kitô hữu, nhờ việc tái sinh bởi nước và Thánh Thần, đã trở nên những tạo vật mới, được gọi là con Thiên Chúa và quả thực như thế, nên có quyền hưởng một nền giáo dục Kitô giáo. Nền giáo dục này không chỉ nhằm giúp con người được trưởng thành, nhưng cốt yếu là nhằm giúp những người đã được rửa tội ngày càng ý thức hơn về hồng ân đức tin đã nhận lãnh trong khi họ được hướng dẫn để dần dần hiểu biết mầu nhiệm cứu rỗi. Nền giáo dục ấy còn giúp họ biết cách thờ phượng Thiên Chúa Cha trong tinh thần và chân lý, (x. Ga 4,23) nhất là qua việc cử hành phụng vụ, cũng như huấn luyện họ biết sống theo con người mới trong công bình và thánh thiện của chân lý (Eph 4,22-24) Nhờ vậy họ đạt tới con người hoàn thiện, tới tầm vóc viên mãn của Chúa Kitô (x. Eph 4,13) và góp phần vào việc tăng trưởng của Nhiệm Thể. Hơn nữa, vì ý thức được ơn kêu gọi của mình, chính họ phải tập thói quen minh chứng niềm cậy trông của mình (x. 1P 3,15) cũng như phải giúp cải tạo thế giới theo tinh thần Kitô giáo. Nhờ đó những giá trị tự nhiên sẽ góp phần vào lợi ích của toàn thể xã hội, khi được hòa hợp vào viễn ảnh toàn vẹn của con người được Chúa Kitô cứu chuộc. Vì vậy Thánh Công Ðồng nhắc lại cho những chủ chăn hướng dẫn các linh hồn nhiệm vụ rất quan trọng là phải thu xếp mọi sự, để các tín hữu được hưởng nhờ nền giáo dục Kitô giáo, nhất là giới trẻ - niềm hy vọng của Giáo Hội”.  7*]
   “Hơn ai cả, linh mục / tu sĩ phải là người thực sự trưởng thành nhân bản Kitô giáo, mà thánh Phaolô khẳng định “lấy sự thánh thiện và chân thành Thiên Chúa ban mà cư xử với người ta ở đời, đặc biệt là với anh em... không cư xử theo lẽ khôn ngoan người đời, nhưng theo ân sủng của Thiên Chúa”. (2 Cr 1, 12)
   “Trưởng thành nhân bản Kitô giáo là đã tập luyện được và sống các nhân đức đối thần, đối nhân cũng như đối ngã. Các nhân đức đối nhân có bác ái, khôn ngoan, công chính, can đảm và tiết độ; còn các nhân đức đối thần là Tin, Cậy, Mến để nên thánh, bằng việc tín thác cho Chúa Thánh Thần và kêu xin Ngài ban các hồng ân và hoa trái thiêng liêng giúp chúng ta dễ dàng sống theo sự hướng dẫn của Ngài qua bảy ơn Kính Sợ, Đạo Đức, Suy Biết, Sức Mạnh, Lo Liệu, Thông Hiểu và Khôn Ngoan”.
   “Sự trưởng thành nhân bản Kitô giáo này sẽ ngày càng tăng trưởng nhờ vào sự giáo dục, nhất là giáo dục đức tin. Một số kinh nguyện chúng ta thường đọc thúc đẩy chúng ta ý thức và nỗ lực thực hiện một chương trình sống đạo trưởng thành tuyệt vời:
+ Kinh Thương Người Có Mười Bốn Mối:
*Thương xác bảy mối:
   Cho kẻ đói ăn, cho kẻ khát uống, cho kẻ rách rưới ăn mặc, viếng kẻ liệt cùng kẻ tù rạc, cho khách đỗ nhà, chuộc kẻ làm tôi, chôn xác kẻ chết.
*Thương linh hồn bảy mối: 
   Lấy lời lành mà khuyên người, mở dạy kẻ mê muội, an ủi kẻ âu lo, răn bảo kẻ có tội, tha kẻ dể ta, nhịn kẻ mất lòng ta, cầu cho kẻ sống và kẻ chết. 
+ Kinh cải tội bảy mối có bảy đức: 
  Khiêm nhượng chớ Kiêu ngạo, Rộng Rãi chớ Hà iện, Giữ mình sạch sẽ chớ mê dâm dục, Hay nhịn chớ hờn giận, Kiêng bớt chớ mê ăn uống, Yêu người chớ ghen ghét, Siêng năng việc Đức Chúa Trời chớ làm biếng. Nhất  
+ Tám Mối Phúc Thật
 Quen gọi là Hiến Chương Nước Trời”. …
 
 3. TRƯỞNG THÀNH NHÂN BẢN ĐỜI TU
 
   3.1 + Trưởng thành đời tu:
                 Tiến trình ơn gọi năm bước
  • Một là thực sự nghe được tiếng Chúa kêu gọi.   
  • Hai là quảng đại đáp lại tiếng Chúa.
  • Ba là luôn luôn cam kết theo chính Chúa Kitô toàn thể với khổ hình thập giá và phục sinh vinh quang.
  • Bốn là mỗi ngày được biến đổi phù hợp với đời sống và sứ vụ của mình.
  • Năm là kiên trì trung thành với ơn gọi, trung tín với Chúa và Giáo Hội, trung tín với Hội Dòng, Bề Trên, Đấng Bản Quyền và anh chị em, trung tín với lời hứa vâng phục và độc thân khiết tịnh, vượt lên những gập ghềnh trái ngang về tình cảm và tính dục trong suốt cuộc sống tông đồ mục vụ qua tình bạn với người đồng phái lẫn khác phái, đi tu hay ở đời, độc thân hay có gia đình và góa bụa. Từ đó nung đúc được những tâm tình trưởng thành thiết yếu trong nhân cách linh mục/tu sĩ như tâm tình biết ơn, tâm tình xin lỗi, tâm tình tha thứ, tâm tình cầu chúc những điều tốt đẹp nhất và tâm tình cầu nguyện vì xác tín rằng mọi sự đều bởi Chúa.

3.2 + Trưởng thành đời tu:
         Năm yếu tố giữ cho các mối tương quan được quân bình,
         hài hòa và an toàn, 
nhất là trong tương quan với người khác phái.
  • Một là nơi chốn gặp gỡ,
  • Hai là thời gian và thời lượng,
  • Ba là khoảng cách thể lý và tâm lý,
  • Bốn là sự có mặt của những người thứ ba,
  • Năm là ý thức sống sự hiện diện khuất ẩn, nhưng rất thực của Chúa. [+++]
                                                                    

3.3 + Trưởng thành đời tu:
              Làm chủ thân xác và tâm hồn
  
    “Chúng ta không bao giờ nhấn mạnh đủ về tầm quan trọng của trưởng thành giới tính, dưới hai khía cạnh: làm chủ thể xác và làm chủ tâm hồn. Những người có trách vụ huấn luyện không được phép bỏ qua hoặc coi nhe hai điểm này. Đối với người đang tuổi thanh xuân, những đòi hỏi của xác thế nhiều lúc mãnh liệt, phải tập cho họ biết tư thắng và nhờ đó, họ học được kinh nghiệm làm chủ thân xác mình, trong suốt cả cuộc đời. Nhưng việc làm chủ tâm hồn mới thật là chính yếu, không phải chỉ riêng cho người trẻ, mà cách đặc biệt, nơi những người bắt đầu đi vào tuổi thành nhân, và cho tất cả mọi người. Sự trưởng thành tâm cảm là điều kiện tối cần cho những tâm hồn tận hiến, vì hai lý do:


1* Những người tu hành nói chung, biết để phòng và xa lánh những tội lỗi liên can đến xác thịt, nên ít bị đe dọa cách trực tiếp về phương diện này (dĩ nhiên, phải trừ những trường hợp ấu trĩ về tâm lý hay lệch lạc về luân lý). Trái lại, vì được một sự huấn luyện thiêng liêng và đạo đức nào đó nên tâm hồn họ cũng trở nên tế nhị hơn, và do đó, cũng dễ tổn thương, trong lãnh vực tình cảm, mà họ ít có khuynh hướng đề phòng, vì nghĩ rằng không có gì là tội lỗi!

2* Nếu sự đòi hỏi của xác thịt hình như đặc biệt mạnh mẽ vào lúc thanh xuân, thì những nhu cầu tình cảm sẽ kéo dài suốt đời, dưới hình thức này hay hình thức khác. Bác sĩ Le Moal cho biết, theo kinh nghiệm của ông, đa số trường hợp vấp ngã về giới tính nơi các ơn gọi tu trì, khởi đầu bằng những vấn đề tâm cảm (đặc biệt sự cô độc tâm cảm), rồi từ đó, đi đến những khó khăn thuộc lãnh vực xác thịt. Có lẽ đây cũng là kinh nghiệm mà những ai quen thuộc với sinh hoạt của các linh mục và tu sĩ đều công nhận là đúng. Một cách tiên thiên, những người tu hành sẽ không khi nào khởi đầu những hành vi tôi lỗi một cách trắng trợn, nhưng tình cảm mà họ cho là tốt đẹp hoặc không có  gì đáng trách, dần dà sẽ đưa họ đến chỗ họ không ngờ và làm những điều họ không dự liệu. Các nhà tu đức đều quen thuộc với câu châm ngôn: 'Incipit in spiritu... sed desinit in carne' (bắt đầu trong tinh thần... nhưng chấm dứt trong xác thịt)”. [8*] 

   “Người độc thân dâng hiến, theo định nghĩa, là kẻ chọn cách sống 'khiết tình cho Thiên Chúa' hay 'khiết tịnh vì Nước Trời' đương nhiên cũng loại bỏ mọi thứ tự quy để 'tìm kiếm và yêu mến Thiên Chúa trên hết mọi sự, (PC 6) nhưng lại tìm Chúa qua anh em mình. Bởi lẽ đó, họ càng không thế ỷ lại vào sức lực tự nhiên để thành tựu trong cách sống ngoại thường này. Càng ít tuổi, càng thiếu kinh nghiệm chúng ta càng dễ mang ảo tưởng là có thể tư gánh vác đời mình và dễ dàng sống độc thân, nhưng tất cả những ai đã chiến đấu nhiều để trung thành với lý tưởng 'vì Nước Trời' đều phải công nhận sự bất lực của riêng mình để thực hiện điều mình thể hứa.

   Vào mỗi giai đoạn của độc thân dâng hiến, chúng ta đều phải trở lại với ân sủng, như yếu tố duy nhất làm cho cuộc sống này có ý nghĩa, và nhờ đó, bảo đảm được sự lâu bền và sung mân của nó. Chính vì thế, mà từ cổ chí kim, truyền thống Giáo hội đồng thanh tuyên xưng: độc thân vì Nước Trời là hồng ân của Thiên Chúa”.  [9*]          
                                                                                
    Nhận thức độc thân như một tình yêu mới, những tâm hồn dâng hiến cảm nghiệm ơn gọi của mình như hồng ân Thiên Chúa, đồng thời cũng ý thức rằng ân sủng giả thiết một sự cộng tác tuyệt vời của cố gắng con người vào chương trình bao la của Thiên Chúa. Bởi thế, họ không lười biếng, ỷ lại, cũng không thất vọng, chán nản, nhưng hằng ngày không ngừng ra sức tu chỉnh con người mình, để ân sủng thực hiện những hiệu quả phi thường trên những thửa đất được chuẩn bị sẵn sàng. Vì trong lãnh vực ân sủng, ai có sẽ được cho thêm... và họ sẽ được giàu có, sung mãn gấp trăm lần.   [10*]  

3.4 + Trưởng thành đời tu:
         Cảnh giác và phân định
         trong thời đại bùng nổ truyền thông và Mạng Xã Hội


 “Con người thời nay, nhân danh tự do, muốn thoát khỏi những gì bị coi như ràng buộc, như kềm chế, dần dà có xu hướng thâu nhận ý hệ phóng túng, 'dễ dãi' (permissivité) trong lãnh vực giới tính. Vì có sự buông thả, không còn quan niệm khắc khe về sinh hoạt giới tính, nên không những bây giờ người ta không còn chuẩn mực rõ ràng, để biết điều gì phải làm và điều gì nên tránh... mà còn nghĩ đó là một cách hành xử tốt. Vì chủ trương tự do, mọi thông tin đều được phổ biến. Báo chí, truyền thanh, truyền hình chuyển tải cách nhanh chóng và rộng rãi, những câu chuyện, hình ảnh liên quan đến tính dục”.

   “Trong xã hội tiêu thụ và hưởng thụ, 'Sex' trở nên một món hàng, nên có tình trạng kinh doanh. Quán ăn, quán giải khát (bia ôm), khách sạn, du lịch. Mọi nơi, mọi chỗ đều có S. Người ta lợi dụng S để quảng cáo hàng hoá. Hình ảnh S tràn ngập bởi làn sóng dâm loạn. Trong văn hoá nghệ thuật, người ta còn tìm cách lôi cuốn bằng sex-appeal”.

   “Ngày nay phương tiện truyền thông nối kết mọi người cách nhanh chóng và rộng rãi, nhất là qua mạng Internet. Nó rút ngắn khoảng cách về không gian và thời gian. Đó là một cơ hội thuận tiện giúp con người đến gần nhau hơn trong đời sống xã hội, nhưng cũng làm cho nam nữ không còn 'thụ thụ bất thân'. Phương tiện truyền thông chuyển tải những tin tức hữu ích nhưng cũng góp phần gia tăng những yếu tố độc hại trong nền văn hoá đương đại như một hình thức lây nhiễm cho tất cả mọi người...”.

   “Chìm ngập trong thời đại bùng nổ thông tin, đời tu không đương nhiên được miễn nhiễm, nếu không tìm cách tự bảo vệ. Những nhà giáo dục tìm cách bảo vệ con em khỏi thứ văn hoá đồi truy. Người sống độc thân càng phải để phòng nhiều hơn, vì họ dễ bị tổn thương hơn, do chính nếp sống khác thường của mình. Những vị hữu trách hẳn biết sự tác hại của việc sử dụng "mail, chat" trên Internet, cũng như những liên hệ qua điện thoại thông minh, nhưng phải sử dụng các phương tiện này như thế nào cho thích hợp còn đòi hỏi một phán đoán lành mạnh và một sự trưởng thành cao độ”.

   “Hình như có nhiều ca thán, phàn nàn về cách hành xử của một số linh mục, tu sĩ. Chẳng hạn có những linh mục, tu sĩ, dưới chiêu bài tìm hiểu, tra cứu, ngụp lặn trong bầu khí “nhiễu loạn, nhập nhằng" của sách vở, tiểu thuyết, phim ảnh, âm nhạc thời trang này. Vấn đề là phải được hướng dẫn để sử dụng tự do cho đúng cách và phù hợp với sự chọn lựa căn bản của mình. Nhiều nhà tâm lý đã biểu lộ sự ngạc nhiên trước cách sống hầu như buông thả của một số người tận hiến: từ cách ăn mặc đến lời nói cử chỉ, họ có vẻ còn phóng khoáng hơn những con người phóng đãng của trần gian”.
   “Vào thời buổi này, một số đông những người tận hiến, vốn cam kết giữ độc thân, nhưng không ít thì nhiều, từ khước sống trong bầu khí khiết tịnh vốn hỗ trợ cho sự tiết dục".     “Người ta kể lại trường hợp một số nữ tu (trẻ) Việt Nam tại nước ngoài lên sân khấu tuyên bố: dầu đi tu nhưng vẫn yêu đời và để dẫn chứng, nam nữ vui vẻ ôm nhau nhảy múa. Nhiều người khác luôn muốn chứng minh là dầu đi tu nhưng vẫn là con người biết yêu, nên công khai sử dụng ngôn ngữ tình yêu lãng mạn. Trong một bữa tiệc có đông linh mục và giáo dân tham dự, người ta thấy một linh mục đứng lên hát bài 'Lá diêu bông', trong khi giáo dân đứng lên hát thánh ca, đề cao linh mục như con người của Chúa, đại diện Chúa Kitô”.
  “Phải công nhận nhiều tu sĩ và linh mục có tài năng ca hát. Và tiếng hát của họ được nhiệt liệt tán thưởng. Nhưng người ta cũng tự hỏi tại sao linh mục lại trình bày giữa công chúng những bài hát tình tứ, đầy những tiếng “anh...em”. Người ta có thể đặt câu hỏi tại sao các linh mục hay tu sĩ lại chọn cách diễn tả những tâm tình ấy - hay đến thế, trong khi đời sống của mình giả thiết một sự từ bỏ đối với tình yêu lứa đôi?”.  [11*]               

.5 + Trưởng thành đời tu:

           Khổ chế
  “Đối với người độc thân, nhiệm vụ khổ chế luôn là cần thiết, chính vì con đường của họ không phải là con đường tự nhiên', nơi mà người ta có thể buông xuôi, thả nổi. Chúng ta không cần nhắc lại những nguyên tắc sơ đẳng về khổ chế như một yếu tố quan trọng của đời sống theo Chúa Kitô. Ân sủng chỉ có thể phô diễn sức mạnh chữa lành và tái tạo của nó, trên một tự nhiên được thanh luyện khỏi vết nhơ tội lỗi nhờ những hình thức khổ chế. Hội Thánh lưu ý những nhà huấn luyện vào đời độc thân là, cả khi ứng viên cho thấy những chất tố tích cực, thì cũng không thể bỏ qua sự cần thiết của ân sủng và sự trung thành tuân giữ các quy luật khổ chế. Những lời kêu gọi của Công đồng Vaticanô II về khổ chế không phải để bảo vệ một lối sống đã lỗi thời nhưng vì chúng rất cần thiết, đặc biệt đổi với những con người của thế kỷ XX. Gắn liền với việc tuân giữ độc thân của linh mục, Công đồng đã lưu ý tới đời sống kỷ luật ngay từ lúc huấn luyện ở chủng viện, (OT 11) nhưng không quên thêm rằng các quy luật khổ chế là không thể thay thế ngay trong chính đời sống của linh mục: 'Đồng thời, các ngài lại phải luôn dùng mọi phương thế siêu nhiên và tự nhiên mà mọi người sẵn có, nhất là các ngài hãy tuân giữ những luật lệ khổ hạnh đã được kinh nghiệm của Giáo hội chuẩn nhận và không kém cần thiết trong thế giới ngày nay”. (PO 16-18; x. Sac. Cael. 66,74)
   “Trong Tông Huấn Vita Consecrata, dưới tiêu đề “tiếng gọi nên thánh", (Chương 1, mục IV) Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II nhắc đến tầm quan trọng của sự thinh lặng tôn thờ và cầu nguyện, để có một đời sống thánh thiện. Liền sau đó, ngài kêu gọi tái khám phá những phương thế khổ hạnh, đặc trưng của truyền thống Giáo hội và của mỗi Hội dòng: “Chúng đã làm nên và luôn mãi làm nên một sự nâng đỡ mạnh mẽ cho cuộc hành trình đích thực tiến đến sự thánh thiện”. (VC 38)

   “Dĩ nhiên, Kitô giáo không bao giờ coi khổ hạnh như mục đích, cũng như độc thân không phải là mục đích, nhưng chúng là những phương tiện mà trong tình trạng sa đọa của loài người sau nguyên tội, đã trở nên cần thiết, để giải phóng đức ái và mở rộng tâm hồn hướng về Thiên Chúa và tha nhân. Xét cho cùng, đời sống độc thân là một hình thức khổ chế căn bản nhất, bởi thế để có thể thành tựu trong cách sống này, con người phải đặt mình trong tình trạng sẵn sàng ứng chiến' (đó là ý nghĩa nguyên sơ của 'askesis), bằng một nếp sống kỷ luật và một vài hành vi khổ hạnh tích cực, nhiều hay ít, tùy theo nhu cầu của từng người và từng hoàn cảnh".   [12*]

   Xét cho cùng, người tu hành, trong bất cứ tôn giáo nào, nếu muốn sống độc thân cách tích cực đều có những hình thức khổ chế. Các tăng sĩ Phật giáo là những người cam kết sống độc thân. Riêng tại Việt Nam, các tăng ni đều có hình thức chay tịnh. Ngoài ra, việc huấn luyện độc thân còn dựa trên nguyên tắc 'tam thường bất túc' (ăn không đủ no, mặc không đủ ẩm, ngủ không đủ giờ) để chiến thắng các đòi hỏi của thân xác. Một vài chi tiết đơn giản như thế đủ cho thấy tầm quan trọng của khổ chế để có một đời độc thân tích cực. Hình thức và cường độ có thể khác nhau nhưng nguyên tắc khổ chế như phương tiện phổ cập để thực hiện đời tu thì không thay đổi.
   Chúng ta có thể trưng dẫn nhiều lý do lịch sử, văn hoá, xã hội để biện hộ cho việc khổ chế, nhưng cuối cùng, chỉ có một lý do chính yếu đối với người muốn bước theo Chúa Kitô, đó là lời Chúa Giê su đã tuyên bố dứt khoát: “Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình...".  (Mt 16, 24)   [13*]  
                                                                                     
3.6 +  Trưởng thành đời tu:
                 Tiến về phía trước
 
   “Xác tín về lời mời gọi của Thiên Chúa, người độc thân khiết tịnh đồng thời cũng ý thức rằng ơn gọi không phải là một biến cố duy nhất, xẩy đến một lần cho tất cả, nhưng là một cuộc đối thoại tình yêu được lặp lại từng ngày và vào mỗi giai đoạn quan trọng của đời sống. Điều này giả thiết một sự phúc đáp liên tục đối với tiếng gọi luôn được canh tân của Thiên Chúa. Giá trị của lời cam kết độc thân không cốt ở những văn tự chết, nhưng được chứng minh bằng một cuộc sống trung thành với lời đã hứa, qua những thăng trầm biến đổi của lịch sử con người”.
  “Nếu động lực cơ bản của độc thân là tình yêu, thì tình yêu lại thiết yếu gắn liền với trung thành, nghĩa là một tình yêu bền chặt, kiên cường, không thay đổi theo thời gian. Chính vì yếu tố trung thành này mà người ta nói được là không có sự khiết tịnh nhưng chỉ có những con người khiết tịnh. Chính trong sự hao mòn và đục khoét của thời gian mà con người khiết tịnh được thành hình, cũng như sự mài dũa lâu ngày, gạn lọc những điều bợn nhơ, làm cho kim cương thêm sáng ngời, tinh trong. Người khiết tịnh vì thế luôn là người trung thành: trung thành với lời cam kết trước sự chứng giám của Giáo hội và quan tâm của xã hội, nhưng quan trọng hơn, trung thành với chính bản thân mình. Nếu không giữ điều mình đã hứa, người ta thất trung đối với giao ước xã hội; nhưng cả khi bên ngoài không có gì sai lỗi với lời cam kết, người ta vẫn có thể thất trung với chính lòng mình, bằng cách phủ nhận trong thầm kín điều đã tuyên bố cách công khai, và điều này có lẽ nghiêm trọng hơn, đối với những ai biết quý trọng nhân phẩm của chính mình, cả khi chưa đề cập đến sự trung thành với Thiên Chúa, Đấng dò xét tâm can...”.
   “Sự khiết tịnh, cũng như toàn thể cuộc sống con người luôn biến chuyển. Nó có thể đi về hướng tình yêu dâng hiến cũng có thể quay về hướng vị kỷ, cầm giữ. Nó có thể suy sụp nhưng cũng có cơ hội vươn lên. Người trung thành trong độc thân dâng hiến là người, dầu có lúc lùi lại và quỵ ngã, nhưng cuối cùng vẫn chỗi dậy, vươn lên và luôn tiến về phía trước”. [14*]  
                                                        
3.6 + Trưởng thành đời tu:
              Phương thế bảo toàn đức khiết tịnh
  
  “Cuộc đời khiết tịnh thánh hiến không tránh được nỗi cô đơn mà người nữ tu phải can đảm chịu đựng, nó đòi hỏi chị phải trưởng thành và quân bình. Những ai phó thác toàn thân cho Chúa trong yên lặng nội tâm và kinh nguyện sẽ được tràn đầy ơn Chúa để luôn sống trung thành.
1. Chị em giữ quân bình cho đời sống tâm sinh lý, không dồn ép bản tính tự nhiên, nhưng điều hoà mọi năng lực để sống an vui:
a. Rèn luyện một tinh thần minh mẫn và một thể xác lành mạnh.
b. Chế ngự ngũ quan, trí tưởng tượng, và các đam mê.
c. Khôn ngoan, thẳng thắn, và trong sáng trong tương quan bạn hữu và khi giao tế.
d. Khiêm tốn, kín đáo, đoan trang, và giản dị trong tác phong cũng như y phục.
e. Thận trọng khi tham khảo các tài liệu, sách báo, phim ảnh hoặc khi sử dụng các phương tiện truyền thông xã hội.
f. Chuyên chăm thi hành việc bổn phận.

2. Trong tình huynh đệ, chị em tạo bầu khíbình an, yêu thương, tin tưởng, tế nhị nâng đỡ, khích lệ, và giúp nhau tuân giữ kỷ luật chung. Khi gặp khó khăn và thửthách trong lãnh vực khiết tịnh, đức khôn ngoan và khiêm tốn mời gọi chị em chân thành bày tỏ với chị phụ trách. Cộng đoàn tìm những phương thế hữu hiệu nhất để giúp đương sự vượt qua các trở ngại để có thể trung thành với ơn gọi.

3. Cuộc đời được nuôi dưỡng bằng các bítích là nguồn ơn thánh bất tận để bảo toàn đức khiết tịnh. Chị em luôn sống kết hiệp với Chúa Giêsu Thánh Thể; siêng năng suy gẫm Lời Chúa, chuyên cần cầu nguyện; năng lãnh bí tích hòa giải và bàn hỏi thiêng liêng; cậy trông, phó thác với tình con thảo vào sự trợ giúp của Mẹ Maria”.  [15*]
                                                      
                  ===================================
                     
+ KẾT LUẬN                  
   Tông Huấn Đời Sống Thánh Hiến lưu ý việc đào tạo phải có tính cách toàn diện: bao trùm tất cả mọi chiều kích của con người và kéo dài suốt đời: “Mục tiêu chính của tiến trình đào tạo là chuẩn bị một người dâng trót mình cho Thiên Chúa trong hành trình theo Chúa Kitô để phục vụ sứ mạng của Giáo Hội. Trả lời ‘xin vâng’ đáp lại tiếng Chúa gọi bằng cách chính mình dấn thân làm cho ơn gọi của mình ngày một trưởng thành thêm. Do đó, việc đào tạo phải thấm nhập sâu xa chính con người, sao cho toàn bộ cách ăn ở, trong những lúc quan trọng và trong những lúc bình thường của cuộc sống, cho thấy người đó vui sướng thuộc về Chúa cách trọn vẹn. Do cứu cánh của đời thánh hiến là trở nên đồng hình đồng dạng với Chúa Giêsu trong lễ dâng trọn vẹn của Người, việc đào tạo phải hướng về đó. Đây là một lộ trình giúp từ từ có được những tâm tình của Đức Kitô đối với Chúa Cha. Nếu mục đích của đời thánh hiến là vậy, thì quy trình đưa tới đó cần phải có và cho thấy tính toàn diện: việc đào tạo phải bao trùm toàn diện con người trong mọi khía cạnh nhân cách người đó, trong cách ăn ở cũng như trong các ý hướng. Vì nó nhằm biến cải toàn bộ con người, nên nhiệm vụ đào tạo không bao giờ chấm dứt”. Việc đào tạo toàn diện phải bao gồm mọi lãnh vực của đời sống Kitô hữu và đời sống thánh hiến. Do đó phải tiên liệu việc chuẩn bị nhân bản, văn hoá, thiêng liêng, mục vụ, sao cho các yếu tố đó được hội nhập hài hoà với nhau. Phải dành cho việc đào tạo sơ khởi một thời gian khá dài, vì đây là một tiến trình tiệm tiến, trải qua tất cả các giai đoạn trưởng thành của con người, – từ trưởng thành tâm lý và thiêng liêng đến trưởng thành thần học và mục vụ”. (số 65)
 Tông Huấn Sống Thánh Hiến số 70 nhắc nhở rằng tiến trình đào tạo cần tiếp tục suốt đời, bởi vì hành trình cuộc đời thánh hiến không trơn tru thẳng băng, nhưng gặp nhiều khủng hoảng; vì thế, Tông Huấn Đời Sống Thánh Hiến số 71 nói tiếp: “Nếu trong mọi giai đoạn của cuộc sống, con người phải chủ động trong việc đào tạo mình, thì cứu cánh của việc đào tạo phải nhắm tới toàn thể con người, được mời gọi tìm kiếm và yêu mến Thiên Chúa “hết lòng, hết linh hồn và hết sức lực” (Đnl 6,5) và yêu tha nhân như chính mình. (x. Lv 19,18; Mt 22,37-39) Tình yêu Thiên Chúa và anh em là một sức mạnh năng động, luôn luôn có thể làm nguồn cảm hứng cho tiến trình tăng trưởng và trung tín.
  Đời sống trong Thần Khí hiển nhiên phải được đặt lên hàng đầu. Sống trong Thần Khí, người tận hiến tìm lại được căn tính của mình và một sự thanh thản sâu xa, quan tâm nhiều hơn tới những lời mời gọi thường nhật của Lời Chúa, dưới tác động của Chúa Thánh Thần, các buổi nguyện gẫm, thinh lặng và cô tịch phải được kiên trì bảo toàn, khẩn khoản nài xin Đấng Tối Cao ơn khôn ngoan trong công việc mỗi ngày”. (x. Kn 9,10) Người tu sĩ sống thánh hiến “Bước Theo Thần Khí” để được giải phóng hoàn toàn khỏi những ràng buộc và nô lệ đối với dục vọng bất chính và tính đam mê xác thịt hư hèn; từ đó, “đạt tới tầm vóc viên mãn của Đức Kitô”. (Ep 4,24)
****************************************************

                


                TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1*] Xem Câu chuyện ‘rồi cũng qua đi’,
tại 
http://songdep.xitrum.net/nghethuatsong/118.html                                                                      

[2*]  x. YTCY 48; HP/NVHB  89
[3*]   x. HP/NVHB 87
[4*]   Có linh mục kia bạt tai cả nữ tu!
[5*]   Huấn Thị của Bộ Các Dòng Tu công bố ngày 4/7/2018 -https://www.vaticannews.va/vi/vatican-city/news/2018-07/cong-bo-huan-thi-ve-doan-trinh-nu-thanh-hien.html
[6*]  ĐTC Phanxicô nói tại Hội nghị Quốc gia lần thứ V của Giáo Hội Italia, theo news.va.
[7*] Trích Sắc Lệnh về Giáo Dục Kitô Giáo (Gravissimum Educationis), Khóa VII Ngày 28/10/1965.
[8*]  x. Vì Nước Trời, Độc Thân - Khiết Tịnh
        Lm Antôn Ngô Văn Vững – NXB Tôn Giáo - 2008
        Trang 153-155
[9*]   Sđd - trang 164-165
[10*] Sđd - trang  173
[11*] Sđd - trang 182-185
[12*] Xin xem thêm thông điệp của Đức Giáo Hoàng Piô XII về trinh khiết: "Về điểm (khổ chế) này người ta sẽ không bao giờ canh chừng đủ, không bao giờ nghiêm nhặt đủ. Nếu có ai vì lý do sức khỏe kém hay vì lý do nào khác, không thể thực hành những sự khắc khổ thể xác, thì điều ấy không miễn trừ họ, trong bất cứ trường hợp nào, khỏi sự canh phòng tỉnh thức và hy sinh nội tâm'. (Sacra Virginitas, 25, 03, 1954, số 51)
[13*] Sđd 207-209
[14*] Sđd 209-210
[15*] [HP. NVHB Đ. 20]
[+++] Số 1.2.3 (3.1; 3.2):
 x .Quyển sách LINH MỤC và TU SĨ SỐNG TRƯỞNG THÀNH TÌNH CẢM & TíNH DỤC TRONG BỐI CẢNH GIÁO HỘI & XÃ HỘI HÔM NAY (trang 206 - 222) - NXB Hồng Đức - Hà Nội  22/11/2019.
     Tác giả: Lm Micae-Phaolô Trần Minh Huy-PSS.  

                                                                                                        BMT - 20.7.2025
                                                                                                Lm Gc Phạm Xuân Lương

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết
Video
THÁNH LỄ KHAI MẠC THĐGMTG LẦN THỨ XVI - 2023
tin mung hang ngay copy
THỨ BẢY - 17g30 14/10/2023
TẬP SAN GHXHCG
CHO TRÁI ĐẤT THÊM XANH - SỐ 6
CHO TRÁI ĐẤT THÊM XANH - SỐ 7
HÌNH PVGK
SUY NIỆM LCCN
CHÚNG TA ĐÃ CÓ GIÁO HOÀNG
THỨ BẢY - 17g30 07/9/2025 (CN XXIII TN.C)
CHÚA NHẬT - 17g30 07/9/2025
THỨ HAI - 17g30 08/9/2025
THỨ BA 17g30 09/9/2025
THỨ TƯ - 17g30 10/9/2025
THỨ NĂM - 17g30 11/9/2025
THỨ SÁU - 17g30 12/9/2025
THỨ BẢY - 17g30 13/9/2025
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây